<!-- Google tag (gtag.js) --> <script async src="https://www.googletagmanager.com/gtag/js?id=G-K30JX8Y360"></script> <script> window.dataLayer = window.dataLayer || []; function gtag(){dataLayer.push(arguments);} gtag('js', new Date()); gtag('config', 'G-K30JX8Y360'); </script>

Loài nấm mới cho khoa học được ghi nhận tại Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng mang tên nhà khoa học Alexandr Kovalenko

01/03/2023

Entoloma kovalenkoi được tìm thấy tại rừng hỗn giao, toạ độ địa lý 14.49328°N, 108.54419°E, ở độ cao 970m so với mực nước biển, trên giá thể đất rừng với ưu thế các loài thực vật như: Dacrydium elatum, Dacrycarpus imbricatus, Magnoliaceae, Burseraceae (Canarium), Myrtaceae (Syzygium) thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng, tỉnh Gia Lai. Loài nấm này được đặt theo tên của nhà nấm học lỗi lạc người Nga - Alexander Kovalenko, người đứng đầu Phòng thí nghiệm Hệ thống và Địa lý Nấm của Viện Thực vật Komarov RAS trong nhiều năm, người đã tập hợp tất cả các nhà nấm học của Nga, đồng thời là người khởi xướng và truyền cảm hứng cho các nghiên cứu về khu hệ nấm ở Việt Nam của các nhà khoa học Nga cũng như nhiều dự án quan trọng khác. Ông mất ngày 11 tháng 12 năm 2021 sau 2 năm chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo.

Tiến sỹ khoa học Alexandr Kovalenko trong chuyến khảo sát tại Việt Nam.

Entoloma kovalenkoi được đặc trưng bởi quả thể màu cam sáng với các sợi tơ xuyên tâm, cuống có vân dọc, bào tử hình khối và thuôn nhọn, dạng chuỳ. Trong số các loài có bào tử hình khối và liệt bào tương tự được quan sát thấy ở loài Entoloma latericolor (Horak 1976). Tuy nhiên, Entoloma latericolor có màu đỏ gạch như quế và được tìm thấy ở New Zealand. Loài Entoloma quadratum (= E. salmoneum) cũng có màu cam, tuy nhiên bề mặt nhẵn bóng, liệt bào có hình dạng khác – là những tế bào hình trụ có vách ngăn hẹp thành cụm dày đặc dài tới 120 μm (Horak 1976, Noordeloos & Morozova 2010, Morozova và cộng sự, 2012). Loài mới này giống phức hợp loài Entoloma virescens có màu xanh lam bởi các sợi tơ xuyên tâm không hút ẩm và nhiều dịch màu vàng sữa, dẫn đến sự thay đổi màu sắc của thịt nấm khi bị hư hại. Về mặt phát sinh loài, loài mới này khá xa so với tất cả các loài Entoloma đã biết với các bào tử hình khối từ phân chi Cubospora (Karstedt et al. 2019).

Phân loại - Entolomataceae, Agaricales, Agaricomycetes.

Quả thể có kích thước trung bình. Đường kính mũ 10‒25 mm, lúc đầu hình giống hoa cúc, sau đó hình nón, rộng hình nón không có gai rõ rệt, ban đầu tâm lệch sau đó cân bằng, mép có khía hoặc gồ ghề, không hút ẩm, không có vân mờ, có sợi dọc, có lông, màu cam nhạt đến đậm (5A5 – 8, 6A7– 8; Kornerup & Wanscher 1978). Phiến nấm cách xa vừa phải, khía răng cưa, gần như tự do, màu cam nhạt (5A4–5), cạnh hơi trắng có răng cưa nhỏ. Liệt bào cuống kích thước 40–90 × 2–4 mm, hình trụ hoặc hơi mở rộng về phía gốc, rỗng, có thớ dọc, màu vàng nhạt, màu vàng cam, nhạt hơn so với mũ nấm (4A5–7; 5A4–5), có lông tơ màu trắng ở gốc. Thịt nấm màu cam nhạt, tiết ra dịch màu vàng.

Kích thước bào tử (8–)9– 10(–11) × (7–)8–9(–10) μm, Q = (1–)1.1(–1.2), hình khối, hiếm khi có năm góc khi nhìn từ mặt bên. Đảm bào tử có kích thước 45–59 × 13–19,5 μm, bao gồm 4 bào tử, hình xương đòn, thắt ở phần giữa. Liệt bào lá 46 – 95 × 11–18 μm, dạng hình chuỳ, hình mũi mác đỉnh hơi tròn, đôi khi có vách ngăn, thành mỏng, không sắc tố, tạo thành mép phiến mỏng vô trùng. Liệt bào đuôi là sự chuyển tiếp giữa lớp biểu bì và lớp trichoderm của sợi nấm hình trụ kích thước tối đa 10 μm với các tế bào hình trụ.

Hình 1-2: Hình dạng quả thể nấm Entoloma kovalenkoi ngoài tự nhiên và mặt cắt dọc thân của quả thể. 3- Đảm bào tử. 4- Liệt bào lá. 5- Bào tử.

Entoloma kovalenkoi mọc thành từng đám nhỏ trong rừng hỗn giao ở độ cao trung bình. Đây là loài mới cho khoa học chưa được ghi nhận ở đâu trên thế giới ngoài Việt Nam.

Tin bài: Phạm Thị Hà Giang (Viện Sinh thái nhiệt đới)

Tài liệu tham khảo:

Horak E. 1976. On cuboid spored species of Entoloma. Sydowia 28: 171– 236.

Karstedt F, Baroni TJ, Largent DL, et al. 2019. Phylogenetic and morphological analyses of species of the Entolomataceae (Agaricales, Basidiomycota) with cuboid basidiospores. Phytotaxa 391: 001–027.

Morozova OV, Popov ES, Kovalenko AE. 2012. Studies on mycobiota of Vietnam. I. Genus Entoloma: new records and new species. Mikologiya  fitopatologiya 46: 184–200.

Morozova OV, Popov ES, Alexandrova A.V. Entoloma kovalenkoi Morozova O.V, Popov E.S & Alexandrova A.V. Fungal Planet description sheets: 1284–1382. Persoonia - Molecular Phylogeny and Evolution of Fungi, Volume 47, December 2021.

Noordeloos ME, Morozova OV. 2010. New and noteworthy Entoloma species from the Primorsky Territory, Russian Far East. Mycotaxon 112: 231– 255.