<!-- Google tag (gtag.js) --> <script async src="https://www.googletagmanager.com/gtag/js?id=G-K30JX8Y360"></script> <script> window.dataLayer = window.dataLayer || []; function gtag(){dataLayer.push(arguments);} gtag('js', new Date()); gtag('config', 'G-K30JX8Y360'); </script>

Những phát hiện mới về hệ động vật cổ sinh tại hang Làng Tráng và môi trường sống ở Thế Pleistocene

17/08/2023

Hang đá vôi Làng Tráng nằm ở thị trấn Cành Nàng, thuộc huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Hang Làng Tráng trở nên nổi tiếng do tìm thấy hóa thạch người tiền sử và hơn 30 loài khác thuộc hệ động vật Stegodon - Ailuropoda, những loài động vật đặc trưng của nửa sau Thế Pleistocene Giữa - Muộn. Từ năm 2020 - 2022, các chuyên gia Viện Cổ sinh vật học/Viện Hàn lâm Khoa học Nga và các nhà khoa học Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga đã tiến hành 3 cuộc khảo sát cổ sinh vật tại hang Làng Tráng, bước đầu đã ghi nhận một số phát hiện mới về thành phần loài động vật thuộc Thế Pleistocene. 

Phân tích các mẫu di tích cổ sinh vật đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu, các đại diện khác nhau của hệ động vật Stegodon - Ailuropoda thuộc nửa sau Thế Pleistocene Giữa - Muộn khu vực Đông Nam Á tại hang Làng Tráng đã xác định được 41 loài thuộc các đơn vị phân loại khác nhau, cũng như đưa ra giả thiết về môi trường sống cổ sinh ở giai đoạn này. 

Các kết quả nghiên cứu thu được trong giai đoạn 2020-2022 và các tài liệu đã công bố cho thấy, các loài lần đầu tiên được xác định thuộc hệ động vật Làng Tráng bao gồm Vượn khổng lồ - Gigantopithecus blacki, Khỉ đuôi dài - Macaca cf. fascicularis, Khỉ vàng - M. cf. mulatta, Báo gấm - Neofelis nebulosa, Chuột chù - Chodsigoa hoffmanni, Dơi - Ia io, Chuột khổng lồ đuôi dài Neill - Leopoldamys neilli, Chuột đen - Rattus rattus, Tê giác Ấn Độ - Rhinoceros unicornis, Lợn râu Borneo - Sus barbatus, Cheo cheo Nam Dương - Tragulus kanchil, Hươu nước - Hydropotes inermis, Hươu vàng - Axis porcinus, Cá sấu, Rùa và các loài chân bụng trên cạn. 

Trong số các loài mới bổ sung cho hệ động vật hang Làng Tráng, điều đặc biệt quan trọng là việc phát hiện hai mẫu răng của loài Vượn khổng lồ Gigantopithecus blacki, đây là mẫu duy nhất ở Thế Pleistocene của Việt Nam và là một trong những mẫu răng mới nhất được ghi nhận trong số các loài đã tuyệt chủng (khoảng 125 nghìn năm trước). Vượn khổng lồ - G. blacki là một loài đã bị tuyệt chủng, có quan hệ gần với Đười ươi, đây là loài có kích thước lớn nhất trong nhóm linh trưởng, đạt khối lượng cơ thể 200-300 kg. Trước đây, các di tích cổ sinh của Vượn khổng lồ là các mảnh răng và xương hàm được thu thập từ trầm tích Thế Pleistocene của các hang động đá vôi ở miền Nam Trung Quốc, cũng như phát hiện những chiếc răng đơn lẻ ở miền Bắc Việt Nam và miền Bắc Thái Lan, một số mảnh xương hàm dưới của một con khỉ khổng lồ có niên đại địa chất chưa rõ được tìm thấy trên đảo Java (Indonesia), có kích thước tương ứng với G. blacki, được coi là Gigantopithecus sp.

 Ảnh đồ họa tái tạo hình dáng Vượn khổng lồ - Gigantopithecus blacki. (Nguồn: Hoạ sĩ Z. Burian)

Phân tích đặc điểm hình thái và kích thước thân răng phát hiện tại hang Làng Tráng hoàn toàn tương ứng với răng của loài Vượn khổng lồ - G. Blacki về độ dày men răng, kích thước và hình dạng của chân răng. Bề mặt men răng có các vết xước và vết rỗ siêu nhỏ, là đặc điểm đặc trưng cho răng của các loài linh trưởng. Dữ liệu về sự phân bố địa lý và địa tầng của Gigantopithecus đã chỉ ra rằng, ở giai đoạn Pleistocene - Giữa, phạm vi phân bố của loài này đã giảm xuống một khu vực nhỏ ở miền Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam. Như vậy, sự tuyệt chủng của loài Vượn khổng lồ đã xảy ra vào thời điểm chuyển giao từ Pleistocene - Giữa sang Pleistocene - Muộn, các mẫu di tích cổ sinh thu được ở hang Làng Tráng thuộc về một trong những ghi nhận của G. blacki mới nhất còn sót lại cho đến hiện nay.

Từ những dẫn liệu về thành phần loài hệ động vật hang Làng Tráng có thể thấy rằng, môi trường cổ sinh giai đoạn này được đặc trưng như là các dạng sinh cảnh đan xen, chiếm ưu thế là các khu vực ẩm ướt cùng với các khu rừng ngập mặn và các vùng đất thấp ven biển, những điều kiện môi trường như vậy có thể đã tồn tại ở khu vực của hang động trong quá trình biển tiến vào đầu Thế Pleistocene - Muộn.

Như vậy, các nghiên cứu về hệ động vật Thế Pleistocene tại hang Làng Tráng đã chỉ ra sự thích nghi sinh thái, động lực phân bố của các loài động vật cổ sinh và thời hiện đại, cũng như các thay đổi về hệ động vật và điều kiện cổ môi trường trong quá khứ. Các dữ liệu thu được là minh chứng làm luận cứ khoa học cho việc phân tích và dự báo động thái đa dạng sinh học của khu hệ động vật Việt Nam thời kỳ hiện đại.

Tin bài và ảnh: TS. Lê Xuân Đắc, TS. Mashchenko E.N. và Cộng sự
1. Viện Sinh thái Nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga.
2. Viện Cổ sinh vật học, Viện Hàn lâm Khoa học Nga. 

Nguồn tài liệu:

1. Ciochon R.L., Olsen J.W., Paleoanthropological and archaeological discoveries from Lang Trang caves: a new Middle Pleistocene hominid site from northern Viet Nam, Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association, 1991, 10:59-73.
2. Long V.T., De Vos J., Ciochon R.L., The fossil mammal fauna of the Lang Trang caves, Vietnam, compared with Southeast Asian fossil and recent mammal faunas: the geographical implications, Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association, 1996, 14:101-109.
3. Lopatin A.V., The systematic position of a large porcupine (Hystrix, Hystricidae, Rodentia) from the Pleistocene of Vietnam (Lang Trang cave), Doklady Biological Sciences, 2020, 495:283-287.
4. Lopatin A.V., Maschenko E.N., Vislobokova I.A., Serdyuk N.V., Le Xuan Dac, Pleistocene mammals from the Lang Trang cave (Vietnam): New data, Doklady Biological Sciences, 2021, 496:1-4.
5. Lopatin A.V., Maschenko E.N., Le Xuan Dac, Gigantopithecus blacki (Primates, Ponginae) from the Lang Trang cave (northern Vietnam): The latest Gigantopithecus in the Late Pleistocene?, Doklady Biological Sciences, 2022, 502:6-10.
6. Lopatin A.V., Golovachev I.V., Serdyuk N.V., Maschenko E.N., Vislobokova I.A., Le Xuan Dac, Pham Mai Phuong, Parkhaev P.Yu., Syromyatnikova E.V., Lang Trang cave (Northern Vietnam): Pleistocene mammalian locality with Gigantopithecus finds, Doklady Earth Sciences, 2022, 504(2):372-379.