TextBody

Phát hiện loài Cá cóc mới tại Vườn Quốc gia Phia Oắc - Phia Đén

19/02/2025

Tạp chí khoa học quốc tế Alytes vừa công bố một loài Cá cóc mới được phát hiện tại tỉnh Cao Bằng, do các nhà khoa học thuộc Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga và cộng sự mô tả. Trong số các loài đã biết thuộc giống Cá cóc (Tylototriton), đây là loài Cá cóc thứ 10 tại Việt Nam và loài thứ 42 trên thế giới. Các nhà khoa học đặt tên tiếng Việt Nam cho loài mới này là Cá cóc Cao Bằng, khu vực ghi nhận loài mới này thuộc Vườn quốc gia (VQG) Phia Oắc - Phia Đén, tỉnh Cao Bằng.

Từ thủ đô Hà Nội đến ngã ba thị trấn Nà Phặc (huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn) khoảng 200 km, sau đó rẽ trái trên đường đèo dốc quanh co hiểm trở theo quốc lộ 279 nối vào đường tỉnh 212 khoảng 50 km sẽ đến Đèo Kolia, dưới chân dãy núi Phia Oắc thuộc VQG Phia Oắc - Phia Đén (địa giới hành chính xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Theo người dân địa phương, từ đầu thế kỷ XX có một nữ kỹ sư người Pháp tên là “Kolia” (Col De Lea - còn được viết là Cô Lê A) đã tham gia xây dựng con đường đèo này và khu biệt thự của người Pháp trên sườn núi Phia Oắc làm nơi nghỉ dưỡng trên núi trong những tháng mùa hè nóng nực. Trong quá trình làm việc tại núi Phia Oắc, nữ kỹ sư người Pháp bị thú dữ tấn công và bà đã mất tại đây. Để tưởng nhớ bà, người dân địa phương đã đặt tên con đường này là Đèo Kolia/Đường Kolia. Hiện nay, nhiều cái tên được gắn liền với “Kolia” vẫn được sử dụng, như Công ty TNHH Kolia Cao Bằng, Nông trại hữu cơ Kolia, Đồi chè Kolia, Mạch nước Kolia, Khu du lịch sinh thái Kolia.

Các nhà khoa học đã ghi nhận loài Cá cóc Cao Bằng phân bố ở độ cao từ 1000 m đến 1400 m so với mực nước biển, thuộc khu vực Đèo Kolia và Nông trại hữu cơ Kolia. Để ghi nhận sự đóng góp cũng như sự tôn kính của người dân địa phương đối với nữ kỹ sư người Pháp trong việc xây dựng con đường Đèo Kolia, các tác giả đã đặt tên khoa học loài Cá cóc Cao Bằng là Tylototriton koliaensis.

Sử dụng các phương pháp so sánh hình thái và giải phẫu (cấu trúc hàm răng và xương hộp sọ) kết hợp các phương pháp phân tích sinh học phân tử (so sánh, giải mã trình tự gen ty thể ND2 và 16S, phân tích đa hình các nucleotide đơn lẻ DNA gen nhân - SPN dựa trên kỹ thuật sử dụng enzyme cắt hạn chế kép DNA - ddRDA, xây dựng mối quan hệ di truyền giữa các loài), các nhà khoa học đã xác định Cá cóc Cao Bằng khác biệt với các loài Cá cóc đã biết tại Việt Nam cũng như trên thế giới.

Cá cóc Cao Bằng có lưng màu đen, bụng màu xám đen, tứ chi màu đen; đầu ngón chi trước và ngón chi sau, một phần của lòng bàn các chi có màu cam sáng, sọc màu cam kéo dài dọc theo mép dưới của đuôi đến cuối đuôi; không có các vệt màu cam sáng trên tuyến mang tai hoặc nốt sần bên sườn. Cá thể đực có chiều dài cơ thể 56,0-61,4 mm, cá thể cái 70,8-73,0 mm; đầu mõm bằng khi nhìn từ trên xuống và tù tròn khi nhìn từ mặt bên; chiều dài và chiều rộng phần đầu tương đương nhau; nếp gấp da dưới cổ mỏng; da thô với các nốt mịn ở hai bên, các nốt nhỏ dần về phía lưng; đường gờ dọc trên đầu không rõ ràng; đường gờ dọc đốt sống nổi rõ; có 10-12 nốt sần xếp thành chuỗi không đều ở hai bên sườn, xen kẽ với các nốt nhỏ hơn.

Cá cóc Cao Bằng sinh sản vào mùa hè, từ tháng 4 đến tháng 7, chúng xuất hiện ở các đoạn suối chảy chậm và các vũng nước sâu 30-50 cm. Nòng nọc có đầu tương đối rộng, khoảng cách giữa hai hốc mắt rộng hơn khoảng cách giữa hai lỗ mũi, đuôi nhọn, vây đuôi cao hơn vây bụng và đuôi ngắn hơn thân. Các giai đoạn phát triển của nòng nọc đều có màu sẫm, ngoại trừ ngón các chi và vây bụng có màu vàng. Vào mùa đông Cá cóc Cao Bằng ẩn nấp dưới các tảng đá và hang hốc trong giai đoạn sống trên cạn.

Cá cóc Cao Bằng (T. koliaensis)

A - Cá thể đực, B - Cá thể cái (Ảnh: Nikolay A. Poyarkov).

Khu vực phân bố Cá cóc Cao Bằng

A - Ảnh toàn cảnh, B - Ảnh địa điểm ghi nhận loài (Ảnh: Lê Xuân Sơn).

Hiện nay, Cá cóc là một trong những loài lưỡng cư dễ bị đe doạ nhất trên thế giới, vì vậy tất cả các loài Cá cóc đều được liệt kê trong Phụ lục của Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES). Tại Việt Nam, các loài Cá cóc thuộc giống Tylototriton đều có trong Phụ lục IIB của Nghị định số 84/2021/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp. Theo Danh lục Đỏ thế giới (IUCN, 2/2025) có 22 loài Cá cóc (thuộc giống Tylototriton) xếp ở tình trạng bảo tồn từ VU (Sắp nguy cấp) đến NT (Cực kỳ nguy cấp). Theo kết quả điều tra ban đầu, Cá cóc Cao Bằng phân bố trong phạm vi khoảng 664 ha thuộc VQG Phia Oắc - Phia Đén, khu vực này từ trước kia đã chịu nhiều tác động nhân sinh. Trong vài thập niên gần đây, công tác bảo vệ rừng, phục hồi và làm giàu rừng, gây ươm các giống cây bản địa quý hiếm để trồng mới nâng cao diện tích phủ xanh đã được người dân, chính quyền địa phương và VQG Phia Oắc - Phia Đén phối hợp thực hiện rất tốt. Tuy nhiên, với tính chất dễ bị tổn thương đối với các loài Cá cóc nói riêng, cùng với sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu, các nhà khoa học đã đề nghị đưa loài Cá cóc Cao Bằng vào Danh lục Đỏ thế giới (IUCN) tình trạng bảo tồn ở mức Nguy cấp (EN).

Cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm sinh học sinh thái, làm rõ phạm vi phân bố loài Cá cóc Cao Bằng trong khu vực và vùng phụ cận, cũng như có các biện pháp bảo tồn loài, bảo vệ hệ sinh thái và môi trường, duy trì và phát triển giá trị đa dạng sinh học VQG Phia Oắc - Phia Đén.

Tin bài: Nguyễn Vũ Anh, Lê Xuân Sơn và Lê Xuân Đắc (Viện Sinh thái Nhiệt đới)

Nguồn tài liệu: Nikolay A. Poyarkov, Tan Van Nguyen, Son Xuan Le, Dac Xuan Le, Dmitriy V. Arkhipov, Vladislav A. Gorin, Axel Hernandez & Christophe Dufresnes. Multiple lines of evidence for a new cryptic species of Tylototriton (Amphibia, Salamandridae) from northern Vietnam. Alytes, 11/2024, 41 (1-4):56-98.