Thạch sùng dẹp Cát Tiên - Một loài thạch sùng mới được phát hiện tại Vườn Quốc gia Cát Tiên
29/06/2023Thạch sùng dẹp Cát Tiên (tên khoa học Hemiphyllodactylus cattien) thuộc họ Gekkonidae là một loài thạch sùng mới được Yushchenko, Grismer, Bragin, Dac & Poyarkov lần đầu tiên mô tả năm 2023 tại Vườn Quốc gia Cát Tiên.
Thạch sùng dẹp Cát Tiên được ghi nhận trên thân cây cách mặt đất 1,5 m, trong rừng khộp nguyên sinh dọc theo đường mòn đến hồ Bàu Sấu.
Thạch sùng dẹp Cát Tiên là loài thứ tám thuộc giống Hemiphyllodactylus được mô tả ở Việt Nam. Không giống như phần lớn các loài giống Hemiphyllodactylus là loài đặc hữu có giới hạn sinh sống ở vùng cao, loài thạch sùng dẹp Cát Tiên là loài sống ở vùng đất thấp. Là một loài nhỏ với chiều dài đầu - thân tối đa là 35,1 mm con cái; đầu hình tam giác ở mặt sau (hình D); lỗ tai hình elíp, nhỏ (hình B); mũi rộng hơn cao, viền mũi phía sau gần trên mũi lớn (hình C); cằm hình tam giác, viền ngang bao phủ hàng vảy môi dưới thứ nhất và phía sau là hai hàng sau cằm (D); có một u lồi phình to ở mép bên gốc đuôi (hình E).
Phân tích phát sinh loài sử dụng trình tự gen ND2 mtDNA cho thấy, thạch sùng dẹp Cát Tiên là loài chị em của một nhánh bao gồm loài H. indosobrinus từ Lào và H. flaviventris từ Thái Lan.
Thạch sùng dẹp Cát Tiên là loài mới và chỉ thu thập được một mẫu vật duy nhất, mặc dù các nhà nghiên cứu đã rất nỗ lực để thu thập thêm mẫu vật của loài này với nhiều cuộc khảo sát chuyên sâu dọc theo đường mòn đến hồ Bàu Sấu, vì thế số lượng cá thể của loài vẫn là một ẩn số. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng loài thạch sùng dẹp Cát Tiên có thể có mặt ở các khu vực khác của Vườn Quốc gia Cát Tiên như khu vực Cát Lộc, Tây Cát Tiên, cũng như các vùng đất thấp và đồi núi phụ cận của các tỉnh Lâm Đồng, Bình Phước ở miền Nam Việt Nam.
Tin bài: Nguyễn Quốc Khánh (Viện STNĐ)
Nguồn: Yushchenko P.V., Grismer L.L., Bragin A.M., Dac Le Xuan & Poyarkov N.A., 2023. A new species of the genus Hemiphyllodactylus Bleeker, 1860 (Squamata: Gekkonidae) from a lowland monsoon forest in Southern Vietnam. Zootaxa, 5306(5): 537-550
Bài viết liên quan
Khoa học & công nghệ