<!-- Google tag (gtag.js) --> <script async src="https://www.googletagmanager.com/gtag/js?id=G-K30JX8Y360"></script> <script> window.dataLayer = window.dataLayer || []; function gtag(){dataLayer.push(arguments);} gtag('js', new Date()); gtag('config', 'G-K30JX8Y360'); </script>

Vi nhựa: Một đại dịch khác?

15/03/2023

Ngày nay, vi nhựa có ở khắp nơi, từ vùng Bắc Cực đến trầm tích sông Mekong, từ hạt muối đến cá tôm, sò vẹm… Điều này có khiến chúng ta tự hỏi, vi nhựa, bằng cách nào, xâm nhập vào đời sống của chúng ta và chúng sẽ ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào?

Khu vực ven sông ở Quận 8, TPHCM đầy chất thải nhựa và các loại rác khác trong những ngày lụt. Ảnh: stock photo.

Không gian sống của chúng ta, ngày một thoải mái hơn nhưng cũng chật chội hơn bởi sự hiện diện của nhựa. Có người còn coi đây là “kỷ nguyên của nhựa”, thậm chí “thời đại đồ nhựa”, giống như những cột mốc khác trong lịch sử tiến hóa “thời đại đồ đá”, “thời đại đồ đồng”. Xuất hiện dưới dạng những sản phẩm phục vụ đa dạng nhu cầu đời sống, nhựa đã len lỏi vào gần như mọi hoạt động của con người: chai nước uống, hộp đựng thực phẩm, ống dẫn nước, thiết bị điện tử, thiết bị y tế, đồ dùng học tập, đồ chơi, đồ dùng chăm sóc cá nhân, săm lốp ô tô xe máy, quần áo… Trên toàn cầu, mỗi giây có 160.000 túi nhựa được làm ra, mỗi phút có một triệu chai nhựa được bán và lượng chất thải nhựa tương đương sức chứa của hai xe tải đổ vào đại dương… Riêng ở Việt Nam, mỗi năm tạo ra 2,8 đến 3,1 triệu tấn chất thải nhựa. Những con số thống kê ban đầu này có thể hé lộ cho chúng ta biết phần nào thực tại của nhựa.

Dẫu là chất thải nhựa hay vi nhựa - nhựa ở dạng mảnh, sợi, hạt với kích thước không quá năm milimét - chúng đều có một đích đến: đại dương. Tuy nhiên, sự khác biệt về kích thước khiến vi nhựa trở nên nguy hiểm và khó đoán định. Chúng ra đến biển bằng cách nào? chúng ảnh hưởng như thế nào đến môi trường? chúng có tác động gì đến sức khỏe? Đó cũng là những vấn đề thôi thúc các nhà khoa học khắp thế giới, trong đó có Việt Nam, đi tìm lời giải từ những năm qua - “một dịp hiếm hoi mà nhà khoa học Việt Nam có thể đồng hành cùng đồng nghiệp quốc tế”, như nhận xét bên lề một hội thảo về chất thải nhựa vào năm 2018 của giáo sư Phạm Hùng Việt (PTN Công nghệ phân tích phục vụ kiểm định môi trường và an toàn thực phẩm, ĐHQGHN), một nhà nghiên cứu tiên phong về ô nhiễm môi trường ở Việt Nam.

Nhưng thật không đơn giản để bắt vi nhựa phải trả lời…

Những dòng sông vi nhựa

Câu chuyện về vi nhựa luôn khơi gợi sự tò mò của mọi người. Rõ ràng vi nhựa là sản phẩm do con người tạo ra, gắn liền với đời sống xã hội, nghĩa là chủ yếu diễn ra trên đất liền, nhưng bằng cách nào đấy, nó đã có những chuyến đi xuyên biên giới hành chính để đến đại dương. Mặc dù được các nhà khoa học quan tâm từ đầu những năm 2000 nhưng phải đến năm 2015, mọi chuyện mới trở nên rõ ràng: các dòng chảy chính là con đường vận chuyển chất thải nhựa và vi nhựa. Quá trình vận chuyển này phức tạp vì liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm mật độ dân số, quá trình đô thị hóa, mức sống của người dân, điều kiện thủy văn, cơ sở hạ tầng quản lý chất thải… “Giống như các loại ô nhiễm khác từ trước đến nay, con đường gây ô nhiễm của chất thải nhựa và vi nhựa là một chuỗi hành trình bắt nguồn từ việc sử dụng, xả thải của con người. Khi đó, chúng thường ra sông ra suối, theo dòng chảy qua các vùng đô thị tới vùng duyên hải ven bờ rồi đổ ra biển, đi vào trầm tích hoặc trôi nổi theo các dòng hải lưu”, giáo sư Phạm Hùng Việt nói.

Lợi thế của Việt Nam về hệ thống sông ngòi chằng chịt, với 2.360 con sông dài hơn 10km, trải dài từ Bắc tới Nam và 112 cửa sông, vô hình trung đã tạo ra các “đường cao tốc” thuận lợi cho vận chuyển vi nhựa.

Ở đây, lợi thế của Việt Nam về hệ thống sông ngòi chằng chịt, với 2.360 con sông dài hơn 10km, trải dài từ Bắc tới Nam và 112 cửa sông, vô hình trung đã tạo ra các “đường cao tốc” thuận lợi cho vận chuyển vi nhựa. Sự hiện diện của chất thải nhựa và vi nhựa trên những con sông này không hề giống nhau, ngược lại, “những gì chúng tôi quan sát được là nơi có nồng độ vi nhựa cao nhất là những dòng chảy và hồ ao ở vùng đô thị có mật độ dân số rất cao, đặc biệt những dòng chảy rất nhỏ như kênh và thường đón nhận nước thải, có thể được xử lý và có thể không được xử lý”, TS. Emilie Strady (Viện Nghiên cứu phát triển Pháp) cho biết trong một hội thảo online vào tháng 3/2021.

Khoa học đem lại bằng chứng để chúng ta có thể tạm hình dung mức độ ô nhiễm vi nhựa trong môi trường nước ở Việt Nam qua một bức tranh mới được phác thảo sơ khởi. Trong bức tranh này, các điểm đáng chú ý là những đoạn sông chảy qua đô thị và các khu đông dân cư khác. Một trong những ví dụ điển hình là Đồng bằng châu thổ sông Hồng, vùng đông dân cư bậc nhất Việt Nam (chiếm gần 23,4% dân số cả nước) và có hệ thống sông Hồng dài 1.140 km đổ ra biển qua các cửa Bạch Đằng, Ba Lạt, Lạch Giang, Trà Lý, Đáy… Với các phân lưu và phụ lưu, mạng lưới sông Hồng vô cùng phức tạp với các dạng trao đổi nước, hoặc là lấy nước từ dòng chính sông Hồng hoặc là bổ cập cho dòng chính, sau khi đón nhận nước từ hồ ao, kênh rạch.

Vi nhựa trong phòng thí nghiệm. Nguồn: The Guardian.

Sự phức tạp do tự nhiên tạo ra đã đem đến cơ hội trao đổi, luân chuyển vi nhựa. Thuộc top sông ô nhiễm bậc nhất miền Bắc, Tô Lịch chảy qua các quận nội thành đông dân cư của Hà Nội và tiếp nhận gần như trọn vẹn nước thải sinh hoạt nội đô. Sau đó, nước trên Tô Lịch theo dòng tới đập Thanh Liệt để đổ vào sông Nhuệ, con sông tiếp nhận thêm nước từ sông Hồng qua cống Liên Mạc rồi hợp lưu với sông Đáy qua cống Phủ Lý trước khi đổ ra biển tại cửa Đáy. Khi thực hiện dự án COMPOSE từ năm 2019 đến năm 2021, TS. Emilie Strady và các nhà nghiên cứu Việt Nam đã tìm thấy, cứ một mét khối nước ở Tô Lịch chứa tới 2.522 hạt vi nhựa, cao nhất trong số các con sông được khảo sát ở cả ba miền. Từ Tô Lịch đến sông Nhuệ, nồng độ vi nhựa giảm xuống còn 93,7 hạt trong một mét khối nước. Ở dòng chính của hệ thống là sông Hồng, con số này là 2,3 hạt/m3. Lý giải về sự dao động này, giáo sư Phạm Hùng Việt cho biết “Thông thường, lượng vi nhựa bị pha loãng khi từ sông nhỏ ra đến sông lớn. Nồng độ vi nhựa trong nước mặt phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ví dụ như mật độ dân số ở nơi dòng chảy đi qua, lưu lượng nước, tốc độ dòng chảy…”.

Đó cũng là lý do trên các con sông lớn ở Việt Nam khác cũng có nồng độ thấp tương tự sông Hồng: 2,7 hạt/m3 với sông Hàn và 3,9 hạt/m3 với sông Đồng Nai. Ở các cửa biển, cửa sông và vịnh mà nhóm nghiên cứu do TS. Emilie Strady khảo sát, nồng độ cũng dao động từ 0,4 hạt/m3 ở vịnh Cửa Lục (Quảng Ninh) đến 28,4 hạt/m3 ở cửa sông Dinh (Ninh Thuận).

Nhưng những con số này lại làm dấy lên câu hỏi khác: chúng có ý nghĩa gì và cho chúng ta biết thêm điều gì về vi nhựa?

Vi nhựa, một câu hỏi lớn

Cũng như ưu thế của nhiệt điện than trong năng lượng, không có vật liệu nào đọ được với nhựa về tính linh hoạt, độ ổn định, nhẹ về khối lượng, độ bền trong nhiều loại môi trường và nhất là chi phí sản xuất thấp.

Hãy tạm hình dung vi nhựa như một câu chuyện dài mà bất ngờ luôn ẩn trong trang cuối. Ở chỗ tưởng chừng có thể an tâm đặt câu chuyện xuống thì thông tin mới lại được hé lộ. Bởi, những gì về vi nhựa chúng ta biết chỉ là một phần trong một thực tế rộng lớn hơn, phức tạp hơn. “Như những vấn đề ô nhiễm môi trường mới nổi khác, phần lớn công việc nghiên cứu ban đầu về vi nhựa bao giờ cũng tập trung vào nhận diện mức độ ô nhiễm. Sau đó, khoa học sẽ đi vào tìm hiểu sâu hơn về các quá trình hình thành, vận chuyển, đặc điểm, vòng đời, khả năng tiếp xúc với hệ sinh thái, môi trường xung quanh và hệ quả của nó với môi trường và con người. Đó là một quá trình đòi hỏi sự kiên nhẫn nhưng không phải lúc nào cũng dễ dẫn đến thành công”, giáo sư Phạm Hùng Việt, với 43 năm kinh nghiệm nghiên cứu về ô nhiễm asernic, các hợp chất hữu cơ khó phân hủy (POPs), hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOCs)…, cho biết.

Những hiểu biết mới mà khoa học đem lại cho chúng ta một chân dung chi tiết hơn về vi nhựa. Dù tồn tại ở đâu, không khí hay đất liền, nước mặt hay trầm tích, sông ngòi hồ ao hay biển cả, chúng cũng gồm hai loại, dạng sơ cấp (primary microplastics) và dạng thứ cấp (secondary microplastics). Theo giáo sư Phạm Hùng Việt, “Với dạng sơ cấp, chúng được sản xuất làm nguyên liệu cho các sản phẩm thương mại như kem đánh răng, sữa rửa mặt, vải vóc, chất tẩy rửa, sơn tường… Còn ở dạng thứ cấp, chúng được hình thành từ quá trình xuống cấp, phân rã và phong hóa của các sản phẩm nhựa lớn như chai nước, túi, hộp, ô dù, thiết bị điện tử, ngư cụ…” Quá trình phong hóa và phân hủy theo thời gian của chất thải nhựa thành vi nhựa, thậm chí là nano nhựa, phức tạp không kém quá trình vận chuyển chúng: nó phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện môi trường xung quanh như tia Mặt trời, nhiệt độ, sóng, mưa gió… và hiện chưa phòng thí nghiệm nào trên thế giới xác quyết là hiểu được trọn vẹn. “Vi nhựa thứ cấp phổ biến hơn sơ cấp. Ở các quốc gia phát triển, tỉ lệ này thường là 80%. Tôi nghĩ là ở Việt Nam, tỉ lệ cũng tương đương”, ông nói.

Vấn đề phức tạp nhất của nhựa và vi nhựa là chúng tồn tại hàng trăm năm, thậm chí lâu hơn. “Sự bền bỉ, một trong những phẩm chất đáng kiêu hãnh nhất của nhựa, giờ lại là lời nguyền của nó - bởi điều đó có nghĩa là nhựa sẽ ở lại trong môi trường của chúng ta tới vài trăm năm”, bài báo “The future of plastic” (Tương lai của nhựa) xuất bản trên tạp chí Nature Communication vào năm 2018, nhận định.

TS. Nguyễn Minh Kỳ. Ảnh: NVCC.

Tại sao thời gian bán rã của chất thải nhựa, và vi nhựa, lại dài như vậy? Không phải chúng đều là sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên là cây cao su ư? Ồ không phải như vậy, dù mủ cây cao su (Amazon Hevea brasiliensis) là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất cao su tự nhiên trên thế giới hiện nay, nhưng cao su tự nhiên lại chỉ là một dạng polymer có nguồn gốc tự nhiên trong rất nhiều loại polymer tổng hợp từ dầu mỏ. Phần lớn, các sản phẩm nhựa gia dụng đều được làm từ các loại polymer dạng này, không phải từ cao su, TS. Nguyễn Anh Nghĩa, Viện phó Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam (Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam), giải thích.

Từ dòng nhựa trong cây cao su, cao su tự nhiên thường được xử lý lưu hóa để cải thiện độ bền và độ đàn hồi, cũng như ngăn không cho cao su bị hỏng. Tuy nhiên, so với cao su tự nhiên thì các polymer tổng hợp mới là nhà vô địch với những đặc tính mà các sản phẩm công nghiệp hay dân dụng mong muốn: polymer polyetylen terephtalat (PET) được sử dụng trong sợi vải, hộp đựng chất lỏng và thực phẩm, khuôn đúc nhựa và kết hợp với sợi thủy tinh sản xuất nhựa kỹ thuật; nhựa nhiệt dẻo polymer polyethylen (PE) làm ống nhựa, mút cứng, túi nhựa; nhựa nhiệt dẻo polyvinylchloride (PVC), chất ổn định nhiệt, chất bôi trơn, các chất phụ gia trong ống dẫn nước, các thiết bị thông gió hay chống ăn mòn kim loại…

Nếu con mắt ngây thơ của người tiêu dùng chỉ thấy một loại nhựa thì trên thực tế có hàng tá polymer tổng hợp khác nhau được dùng làm nguyên liệu đầu vào cho các dạng sản phẩm sinh hoạt và công nghiệp. Với các nhà nghiên cứu thì khác, nhưng thật khó phân biệt bằng mắt thường các dạng polymer ở kích cỡ micro trong đống hỗn độn mà họ thu được, đặc biệt từ mẫu trầm tích chứa đầy các loại vật chất hữu cơ, sỏi đá, TS. Nguyễn Minh Kỳ (ĐH Nông Lâm TP.HCM), giải thích. Thông thường, các nhà nghiên cứu như anh sử dụng phương pháp quang học để xác định các đặc điểm vật lý như kích thước, màu sắc, hình dáng của vi nhựa trong mẫu đã được lọc thô và xử lý, sau đó tiến hành phân tích thành phần hóa học để nhận diện các loại polymer bằng phương pháp phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FT–IR). Sự hỗ trợ của các công cụ tiên tiến giúp họ nhận diện được các loại polymer khác nhau có trong mẫu dựa trên các tín hiệu phổ đặc trưng, “nhưng đôi khi nó đòi hỏi kiến thức chuyên gia về các loại polymer mới nhận diện được vì có phổ một số polymer nó tương tự nhau”, anh nói. Trong cả một chuỗi dài quy trình làm nghiên cứu thì nhận diện polymer hấp dẫn nhất bởi “nó giúp xác định được các đặc điểm, nguồn gốc của chúng. Có rất nhiều tình huống có thể xảy ra, ví dụ có những loại polymer chỉ xuất hiện trong môi trường có đặc thù nhưng lại có trong mẫu mình lấy ngoài hiện trường thì sự xuất hiện này mang tính ngẫu nhiên hay hệ thống?”.

Nhờ vậy mà các nhà nghiên cứu có thể chỉ đích danh nguồn gốc của vi nhựa gây ô nhiễm. “Hệ thống sông và cửa sông Sài Gòn bị ảnh hưởng bởi sản phẩm dệt may: hàm lượng lớn các sợi nhân tạo từ 22.000 đến 251.000 sợi/m3 nước cho phạm vi quan sát các vi nhựa kích cỡ từ 40 đến 5000 μm trong mẫu nước lớn”, TS. Strady viết trong nghiên cứu. “Nồng độ vi nhựa dạng mảnh trên sông Sài Gòn và các kênh chính từ 7 đến 94 mảnh/m3 cho thấy sự lấn át cực độ của vi nhựa dạng sợi trong hệ thống sông này”. Công bố mới của TS. Nguyễn Minh Kỳ, một trong những công trình đầu tiên trên thế giới về vi nhựa trong trầm tích than bùn – được lấy mẫu ở độ sâu 15cm trên đầm lầy huyện Thạnh Hóa, Tân Thạnh, Đức Huệ (Long An), đã xác định được 15 dạng polymer, trong đó phổ biến nhất là PVC (46,2 %), PE (20,9 %), và PP (9,2 %), vốn chủ yếu là kết quả phân rã của các loại bao bì, túi nylon, sản phẩm chăm sóc cá nhân, chất tẩy rửa, phân bón hóa học qua hoạt động công nghiệp, thương mại, sinh hoạt hộ gia đình, canh tác nông nghiệp…

Đằng sau các loại polymer này là hàng loạt khám phá và sáng tạo của con người trong hơn 50 năm qua. Cũng như ưu thế của nhiệt điện than trong năng lượng, không có vật liệu nào đọ được với nhựa về tính linh hoạt, độ ổn định, nhẹ về khối lượng, độ bền trong nhiều loại môi trường và nhất là chi phí sản xuất thấp. Có lẽ, thế giới đồ nhựa đang bủa vây con người trong một tiến trình khó đảo ngược. Nhưng thật ra, ngoài “sự trơ tráo trăm năm”, vi nhựa có thật sự xấu với hệ sinh thái, và dĩ nhiên, với cả con người?

Quá trình khám phá bí mật của vi nhựa trong môi trường, xét cho cùng, cũng là để giải đáp câu hỏi này.   

“Mùa xuân im lặng” của vi nhựa?

“Khi được phát minh thì một chất mới nhìn từ góc nào cũng đẹp, hầu như người ta chỉ thấy ưu điểm của nó. Chỉ có thời gian mới cho ta thấy mặt trái của nó”, năm 2018, giáo sư Phạm Hùng Việt đã nhận xét khi nhìn lại toàn bộ lịch sử ngành hóa chất công nghiệp. “Phàm thứ gì đem lại cho sự thoải mái và thuận tiện cho con người trong sử dụng thì cũng là thứ dễ khiến con người khốn khổ”.

Chủ yếu các nghiên cứu về vi nhựa ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc xác định hình thái, kích thước, phân bố ban đầu… của vi nhựa trong tự nhiên chứ chưa có những nghiên cứu sâu về cơ chế hấp phụ độc chất, tác động lên hệ sinh thái… GS. Phạm Hùng Việt.

Trong lịch sử ngành hóa chất công nghiệp, không thiếu những ví dụ như vậy. Thuốc trừ sâu DDT, một hợp chất hữu cơ cao phân tử chứa chlor, được nhà hóa học Áo Othmar Zeidler tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1874 và sau đó được nhà hóa học Thụy Sĩ Paul Hermann Müller phát hiện ra khả năng diệt trừ sâu hại vào năm 1939. Năm 1948, Hermann Müller được trao giải Nobel Y sinh khi DDT được sử dụng rộng rãi để bảo vệ mùa màng cũng như ngăn chặn dịch bệnh. Không ai ngờ là gần 15 năm sau, nhà nghiên cứu Rachel Carson bất chấp sự đe dọa tính mạng đã công bố Silent Spring (Mùa xuân im lặng), cuốn sách chứng minh sự khốc hại môi trường của việc sử dụng thuốc trừ sâu bừa bãi, sau “trở thành cuốn sách gối đầu giường của các nhà hóa môi trường”, giáo sư Phạm Hùng Việt cho biết. Và năm thập kỷ để cộng đồng khoa học đưa ra bằng chứng khoa học về mối liên hệ giữa phơi nhiễm DDT với bệnh ung thư vú.

Vậy vi nhựa có gây hại cho môi trường và sức khỏe con người như những ví dụ trước trong lịch sử? Nếu xét trực quan về chất thải nhựa, những vật thể có kích thước lớn thì có vô số những trường hợp nó làm sinh vật bị mắc kẹt đường thở, đường tiêu hóa, bị vướng lại trong đám túi, dây dợ… Hình ảnh những con rùa biển mắc trong lưới hỏng, cá chết, chim chết vì búi nhựa trong bụng cho chúng ta cái nhìn rõ nhất về sự chết chóc của chất thải nhựa. Nhưng còn vi nhựa? chúng có khả năng gây hại cho hệ sinh thái và con người hay không? nếu có thì ở mức độ nào? Quá khó để khoa học, dù quốc tế hay Việt Nam, đưa ngay kết luận với bằng chứng thuyết phục. Tất cả còn quá mới mẻ và với phần còn lại của câu hỏi này, nói thì dễ hơn là làm.

Đó là một quá trình mà mọi thứ mới vừa rời vạch xuất phát. Ban đầu, các nhà khoa học cho rằng vi nhựa quá nhỏ để gây ra điều gì đó với hệ sinh thái nhưng ngày càng có nhiều bằng chứng hơn về tác động của nó. Các nhà khoa học đã sử dụng thuật ngữ “Plastisphere” (quả cầu nhựa) để chỉ các hệ sinh thái đã tiến hóa để sống trong môi trường nhựa do con người tạo ra, đặc biệt là hệ sinh thái biển và các sinh vật đáy, tiêu biểu trong số đó là giáo sư Robert C. Hale (Viện Khoa học biển Virginia), năm 2020 xuất bản công trình trên Nature Communications miêu tả ảnh hưởng của vi nhựa lên chu trình nitrogen – một quá trình biến đổi hóa sinh nitrogen qua lại giữa các dạng hợp chất của nó - trong trầm tích biển cũng như ảnh hưởng lên cộng đồng vi sinh vật đáy.

Ở Việt Nam, các nhà khoa học cũng mò mẫm tìm đường. Từ năm 2008, giáo sư Phạm Hùng Việt và các cộng sự Nhật Bản đã tìm hiểu con đường vận chuyển và phát thải hóa chất từ nhựa vào môi trường, một công trình đến nay có gần 700 trích dẫn. Đấy cũng là ý tưởng để ông đặt vấn đề về vi nhựa và tác động của nó với thế giới tự nhiên. “Vấn đề của vi nhựa là về tính chất hóa học, nó có nhiều nhóm chức và cấu trúc lặp đi lặp lại nên rất dễ hấp phụ độc chất hữu cơ, vô cơ trong môi trường. Vì vậy, nó được coi là vector trung gian, chất mang ô nhiễm và góp phần tích tụ ô nhiễm. Hiện vi nhựa được coi là đối tượng lưu giữ và vận chuyển độc tố hữu cơ trong môi trường hay hơn con sò trước đây”, ông nhắc đến nửa thế kỷ cộng đồng khoa học dùng sò làm chỉ thị sinh học. “Về kích thước, vi nhựa quá bé và dễ đâm xuyên qua các mô, tế bào của những loài sinh vật đáy, loài giáp xác, qua đó đi vào chuỗi thức ăn”.   

Giáo sư Phạm Hùng Việt (phải) trong phòng thí nghiệm. Ảnh: Thanh Nhàn.

Nghiên cứu về vi nhựa phức tạp và đòi hỏi kinh phí đầu tư lớn. Trong cuộc hội thảo online vào năm 2021, TS. Emilie Strady chia sẻ về khó khăn gặp phải khi khảo sát 19 vùng nước mặt và hai bãi biển ở chíntỉnh thành cho dự án COMPOSE: không có thuyền nghiên cứu và phải sử dụng thuyền cỡ nhỏ, không có thiết bị hiện đại trong phòng thí nghiệm để phân tích và để tránh nhiễm chéo từ không khí khi xử lý mẫu (trong không khí cũng có vi nhựa), “chúng tôi phải tìm một số phương pháp để có thể tìm được thiết bị giúp giảm tối thiểu nhiễm chéo. Đó cũng là thách thức”. Giáo sư Phạm Hùng Việt đồng ý với ý kiến này. “Kinh phí dành cho vi nhựa thấp, ví dụ chưa đầy đủ để thuê các phương tiện khảo sát tàu thuyền, công cụ lấy mẫu đủ tiêu chuẩn hay nhìn rộng hơn là có được hệ thống cơ sở vật chất phòng thí nghiệm tiên tiến phục vụ nghiên cứu ở mức độ tinh tế”. Vì vậy chủ yếu các nghiên cứu về vi nhựa ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc xác định hình thái, kích thước, phân bố ban đầu… của vi nhựa trong tự nhiên chứ chưa có những nghiên cứu sâu về cơ chế hấp phụ độc chất, tác động lên hệ sinh thái… Kinh phí chưa đủ lớn để nhà khoa học hợp tác liên ngành hay tiến hành nghiên cứu trên diện rộng để có thể đưa ra những thông tin đầy đủ, có ý nghĩa hơn và qua đó, có khả năng cảnh báo.

Dẫu vậy, các nhà khoa học vẫn cố gắng làm được điều gì đó. TS. Lê Kiều Thủy Chung (ĐHQG- TP.HCM) phát hiện ra vi nhựa có trong nhiều loại tôm cá, đa số là dạng sợi: tôm đất/tôm rảo, tôm bạc, cá lưỡi trâu, cá lù đù, cá phèn, cá kèo, cá cơm, cá bống cát… Mật độ sợi vi nhựa trung bình trong cá, tôm nằm trong khoảng từ 0,33 đến 1,41 sợi trên một gam trọng lượng ướt, cao nhất là tôm bạc. Khảo sát của các nhà khoa học tại Huế, Nam Định, Bình Định, Thanh Hóa trên vẹm xanh, loài trai hai mảnh vỏ chuyên ăn sinh vật phù du và chất lơ lửng trong nước được nuôi nhiều trong ao hồ: chủ yếu chứa vi nhựa dạng sợi và mật độ của nó vào khoảng từ 1 đến 1,7 hay 2,6 hạt trên gam ướt. Cuối năm 2022, dư luận cũng xôn xao khi một nghiên cứu công bố các mẫu muối khảo sát đều chứa vi nhựa.

Sự bền bỉ, một trong những tài sản đáng kiêu hãnh nhất của nhựa, giờ lại là lời nguyền của nó – bởi điều đó có nghĩa là nhựa sẽ ở lại trong môi trường của chúng ta vài trăm năm.

Muối ăn hay các loài thủy sinh tích tụ vi nhựa có thể truyền vi nhựa cho người thông qua chuỗi thức ăn. Nhưng sau đó thì sao? Hiện có một số ý tưởng mà các nhà khoa học quốc tế theo đuổi: các bệnh do phơi nhiễm vi nhựa có thể liên quan đến nhiều nhân tố, bao gồm việc hấp phụ mầm bệnh/độc chất và polymer/phụ gia; nhiều độc chất hữu cơ/vô cơ trong sản phẩm nhựa có thể chiếm nhiều % trong tổng trọng lượng nhựa; các đặc tính hình thái vi nhựa (hình dạng, kết cấu, kích thước) có thể ảnh hưởng kết khả năng nhiễm độc sinh thái như kiểm soát sự vận chuyển trong mô, cản trở đường tiêu hóa, hoặc kích thích/tổn thương các mô, dẫn đến những bất thường hoặc gia tăng sự nhạy cảm với các bệnh truyền nhiễm.

Ở Việt Nam, câu hỏi về ảnh hưởng của phơi nhiễm vi nhựa vẫn đang ghim trong đầu các nhà khoa học và họ mong muốn có câu trả lời vào một ngày nào đó. Một người nhiều kinh nghiệm như giáo sư Phạm Hùng Việt thì thực tế hơn. Ông ấp ủ một dự án đủ lớn có thể quy tụ nhiều nhà khoa học liên ngành ở nhiều trường, viện, dựa trên cùng một phương pháp lấy mẫu, xử lý mẫu để lập bản đồ ô nhiễm vi nhựa và chất thải nhựa ở Việt Nam. Nó sẽ giúp chúng ta trả lời câu hỏi chăng? Ồ không chắc, cần những đầu tư dài hơi hơn. Nhưng chí ít bản đồ sẽ đem lại cho chúng ta những công cụ quan trọng trong trận chiến cân não với vi nhựa. Điều này thì chắc chắn, ông trả lời.

————————

Tài liệu tham khảo:

“Baseline assessment of microplastic concentrations in marine and freshwater environments of a developing Southeast Asian country, Viet Nam” Marine Pollution Bulletin.

“First observation of microplastics in surface sediment of some aquaculture ponds in Hanoi city, Vietnam”, Journal of Hazardous Materials Advances.

Transport and release of chemicals from plastics to the environment and to wildlife”, Philosophical transactions of the royal society B: biological sciences.

“Evaluation of microplastic removal efficiency of wastewater-treatment plants in a developing country, Vietnam”. Environmental Technology & Innovation.

“Investigation of ecological risk of microplastics in peatland areas: A case study in Vietnam”. Environmental Research.

“A Global Perspective on Microplastics” JGR: Oceans.

Nguồn: https://tiasang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/vi-nhua-mot-dai-dich-khac