<!-- Google tag (gtag.js) --> <script async src="https://www.googletagmanager.com/gtag/js?id=G-K30JX8Y360"></script> <script> window.dataLayer = window.dataLayer || []; function gtag(){dataLayer.push(arguments);} gtag('js', new Date()); gtag('config', 'G-K30JX8Y360'); </script>

Xí nghiệp Vật liệu quân sự - mô hình triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào phục vụ công tác bảo đảm kỹ thuật của quân đội

04/05/2021

Năm 2009, Xí Nghiệp Vật liệu Quân sự (XNVLQS) thuộc Viện ĐBNĐ được thành lập trên cơ sở phân xưởng Sản xuất Vật liệu. Xí nghiệp được tổ chức gọn nhẹ với biên chế Ban Giám đốc, bộ phận kế toán, thủ quỹ, các trợ lý kỹ thuật công nghệ, bộ phận KCS và 02 phân xưởng (Phân xưởng vật liệu bảo quản, Phân xưởng phương tiện bảo vệ).

Cán bộ xí nghiệp trao đổi với các chuyên gia của LB Nga đến thăm quan sản xuất

Chức năng chủ yếu của XNVLQS là tiếp nhận các sản phẩm nghiên cứu của các phòng nghiên cứu thuộc Viện Độ bền Nhiệt đới, phối hợp với các phòng để hoàn thiện chất lượng sản phẩm, chế thử và hoàn thiện các qui trình sản xuất ở qui mô pilot, xây dựng tiêu chuẩn và triển khai sản xuất.

Kể từ khi được nâng cấp thành Xí nghiệp Vật liệu Quân sự, đơn vị đã có những bước phát triển nhanh và ổn định. Chủng loại mặt hàng được mở rộng, sản lượng hàng hóa có mức tăng trưởng bình quân hằng năm là 15-20 %. Năm 2020, Xí nghiệp Vật liệu Quân sự sản xuất được hơn 500 tấn hàng hóa các loại, đạt giá trị kinh tế hơn 30 tỷ đồng. Các mặt hàng đang được sản xuất tại Xí nghiệp dùng để bảo quản, niêm cất TBVKKT phục vụ trong các ngành kỹ thuật của quân đội bao gồm các chủng loại như: Dầu súng, dầu bảo quản, mỡ bảo quản, mỡ chịu mặn, vật liệu bảo quản săm lốp AO-1, mastic dẻo không khô MT-97, sơn bitum BT-97, chất ức chế bay hơi, sáp phức hợp dùng cho thuốc nổ nhũ tương và một số chủng loại sản phẩm cao su kỹ thuật. Hiện tại, Xí nghiệp được trang bị hệ thống dây chuyền sản xuất dầu, mỡ bảo quản và dây chuyền sản xuất sáp phức hợp đều có công suất 1000 tấn/ năm.

Hệ thống sản xuất sáp phức hợp

Ngoài hợp tác toàn diện với các phòng nghiên cứu, Xí nghiệp cũng chủ động, tích cực nâng cao năng lực nghiên cứu của cán bộ trong Xí nghiệp thông qua việc tham gia các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, đồng thời động viên, tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên tham gia các khóa đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trong 3 năm gần đây, Xí nghiệp đã gửi đi đào tạo được 03 thạc sỹ, tiếp nhận 01 thạc sỹ ở LB Nga, 01 NCS, và 03 cử nhân. Qua đó, xây dựng được 02 nhóm nghiên cứu phát triển sản phẩm mới: nhóm nghiên cứu các sản phẩm dầu mỡ, vật liệu bảo quản và nhóm nghiên cứu các sản phẩm cao su kỹ thuật. Hàng năm, Xí nghiệp đều có từ 2 đến 3 nhiệm vụ, đề tài nghiên cứu hoàn thiện công nghệ, phát triển sản phẩm mới. Sản phẩm từ đề tài, nhiệm vụ này đều được áp dụng đưa vào sản xuất, mở rộng năng lực của Xí nghiệp. Với lĩnh vực mới phát triển gần đây là sản xuất cao su kỹ thuật, Xí nghiệp cũng đạt các kết quả đáng khích lệ.

Hệ thống máy móc sản xuất cao su tấm

Trong 05 năm trở lại đây, mỗi năm xí nghiệp cung cấp từ 15 đến 20 tấn cao su kỹ thuật các loại (cao su chống tĩnh điện, cao su dẫn diện, cao su chịu dầu, chịu hóa chất) cho các đơn vị trong quân đội. Việc tự nghiên cứu phát triển sản phẩm mới cũng góp phần nâng cao năng lực tự thân của đội ngũ cán bộ xí nghiệp, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trong môi trường nghiên cứu. Với những thành công đã đạt được, với những công việc hiện nay đang triển khai cùng các phòng nghiên cứu của Viện, Xí nghiệp VLQS/ Viện ĐBNĐ sẽ phát triển bền vững và mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo.

Việc áp dụng mô hình Xí nghiệp KH&CN trong Viện nghiên cứu là một trong những lý do quan trọng. Mô hình này đã khắc phục được điểm yếu của các đơn vị nghiên cứu là rất khó khăn để đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, đồng thời tận dụng, phát huy được tiềm năng về chất xám của các nhà khoa học trong một Viện nghiên cứu. Hiện nay, tại các công ty, xí nghiệp lớn ở nước ta nói chung và trong Quân đội nói riêng, việc tổ chức một bộ phận nghiên cứu phát triển mặc dù là rất cần thiết nhưng nhiều khi hiệu quả chưa đạt được như mong muốn. Do lĩnh vực nghiên cứu cần sự đầu tư lớn, đặc biệt là về xây dựng đội ngũ cán bộ là việc làm không thể nhanh chóng. Mô hình Xí nghiệp trong Viện nghiên cứu lại có được lợi thế rất lớn này, tất cả các phòng nghiên cứu có thể coi như là bộ phận nghiên cứu phát triển sản phẩm mới cho xí nghiệp. Các phòng nghiên cứu này cũng có trách nhiệm hỗ trợ xí nghiệp trong việc cải tiến chất lượng sản phẩm hoặc tìm nguyên nhân, khắc phục kịp thời các vấn đề về chất lượng trong quá trình sản xuất.

Sản xuất sản phẩm cao su kỹ thuật

Sự thành công còn đến từ việc mô hình này cho phép tối đa hóa các nguồn lực hiện có của Viện Độ bền Nhiệt đới, nhanh chóng đưa các kết quả của đề tài nghiên cứu vào sản xuất và phát triển thành sản phẩm mới của Xí nghiệp Vật liệu Quân sự. Hiện nay Xí nghiệp Vật liệu Quân sự đã trở thành một đơn vị cung cấp các loại vật liệu bảo quản, vật liệu đặc thù có uy tín và năng lực của quân đội. Bằng việc liên tục phát triển và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, Xí nghiệp Vật liệu Quân sự / Viện Độ bền nhiệt đới đã góp phần nhỏ bé của mình vào việc giữ gìn, đảm bảo chất lượng của VKTBKT, duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội.

Bài và ảnh: ThS Lê Anh Tuân/XNVLQS